Tội tham nhũng

5/5 - (1 bình chọn)

Luật sư bào chữa các loại Tội phạm tham nhũng

toi pham tham nhung

Tội phạm tham nhũng là gì?

Tội phạm tham nhũng là một vấn đề xã hội nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Về mặt pháp lý, tham nhũng được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng vị trí của mình để thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.

Các hình thức tham nhũng phổ biến:

  • Tham ô tài sản: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công.
  • Nhận hối lộ: Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác để làm trái hoặc không làm tròn nhiệm vụ.
  • Đưa hối lộ: Đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích khác để người có chức vụ, quyền hạn làm trái hoặc không làm tròn nhiệm vụ.
  • Lạm dụng chức vụ, quyền hạn: Lợi dụng vị trí của mình để gây thiệt hại cho người khác hoặc tổ chức.
  • Nhũng nhiễu: Sử dụng vị trí của mình để gây khó khăn, phiền hà cho người khác nhằm mục đích vụ lợi.
  • Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Lợi dụng vị trí để gây khó khăn, phiền hà trong quá trình giải quyết công việc.

Các hậu quả của tham nhũng:

  • Gây thiệt hại kinh tế: Làm thất thoát ngân sách nhà nước, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế.
  • Mất niềm tin của nhân dân: Làm giảm lòng tin của người dân vào các cơ quan nhà nước.
  • Làm suy yếu pháp luật: Tạo ra sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội.
  • Cản trở phát triển: Tham nhũng làm chậm quá trình phát triển của đất nước.

Phòng chống tham nhũng

Để phòng chống tham nhũng, chúng ta cần:

  • Nâng cao nhận thức: Tuyên truyền, giáo dục về tác hại của tham nhũng.
  • Cải cách hành chính: Đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch hóa thông tin.
  • Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.
  • Cử tri tham gia giám sát: Tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
  • Xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng: Áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người vi phạm pháp luật.

Tham nhũng là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội.

  • Tính nguy hiểm của loại tội phạm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến sự thụ hưởng các quyền và lợi ích của người nghèo, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gia tăng những bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước.
  • Về đối ngoại, sự gia tăng tội phạm tham nhũng làm giảm niềm tin của các đối tác nước ngoài, uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Nhận thức được mối hiểm họa cao của loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 đã dành riêng một chương quy định về các tội phạm về chức vụ trong đó 01 mục (mục A) với 07 điều luật quy định về các tội phạm  tham nhũng và 01 mục (mục B) với 07 điều luật quy định về các tội phạm khác  về chức vụ, với chế tài hết sức nghiêm khắc.
  • Tuy nhiên, quá trình áp dụng BLHS để xử lý các tội phạm tham nhũng cho thấy, các quy định này còn có nhiều điểm hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm, điều kiện, tình hình phát triển mới về mọi mặt và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước. Kết quả rà soát, đánh giá các quy định của BLHS năm 1999 với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Việt Nam ký kết vào năm 2003 và trở thành thành viên chính thức kể từ ngày 18/9/2009) cũng cho thấy: Pháp luật hình sự của Việt Nam chưa thực sự tương thích với các yêu cầu về hình sự hóa các quy định tại Công ước.
  • Những vấn đề này đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 về tội phạm chức vụ nhằm bảo đảm thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước, cũng như bảo đảm thực thi các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết, tạo cơ sở pháp lý cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế.
    BLHS năm 2015 đã cơ bản thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương đổi mới của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự, cải cách tư pháp. Bộ luật cũng đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 theo hướng nâng cao tính nhân đạo, bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm quyền con người; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường sống yên bình cho người dân, khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, xã hội.
  • Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm chức vụ nói chung, các tội phạm về tham nhũng nói riêng trong tình hình mới, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi, bổ sung các tội phạm về tham nhũng, chức vụ là phải thể chế hóa đầy đủ, toàn diện chủ trương “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác”, trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
  • Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả”, trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Cụ thể hóa quy định “Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013.

Bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự và cụ thể hóa các tình tiết có tính “định tính” 

luat su tu van phap luat
  • Thứ nhất, một số tội về tham nhũng trong BLHS năm 1999 quy định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, chưa dự liệu các tình tiết phát sinh trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng (như phạm tội có tổ chức, phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm nguy hiểm…). Do đó, để bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng, cá thế hóa trách nhiệm hình sự, có chính sách xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, BLHS năm 2015 bổ sung tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “có tổ chức“, “phạm tội 02 lần trở lên” vào Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (điểm a, b khoản 2 Điều 361); bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” vào Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (điểm c khoản 2 Điều 366). Ngoài ra, theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng thì hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi cũng là hành vi tham nhũng. Do đó, Bộ luật đã bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” vào Tội đưa hối lộ (điểm d khoản 2 Điều 364) và Tội môi giới hối lộ (điểm đ khoản 2 Điều 365) để xử lý nghiêm khắc đối với người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ.
    Thứ hai, những vướng mắc khi thi hành BLHS năm 1999 về các tội phạm tham nhũng, chính là các tính tiết có tính “định tính” như: Gây hậu nghiêm trọng, rất nghiệm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…Trong khi đó Hiến pháp năm 2013 quy định mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải do luật định (khoản 2 Điều 14). Do vậy, để đảm bảo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 đã thay thế các tình tiết có tính “định tính” trong các tội tham những bằng một hoặc một số những thiệt hại cụ thể như sau: Thiệt hại về tính mạng; thiệt hại về sức khỏe; thiệt hại về tài sản; số tiền thu lợi bất chính; làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức….Đồng thời tách các tình tiết tăng nặng gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được quy định ở cùng một khung trong BLHS năm 1999 để quy định ở hai khung hình phạt khác nhau trong BLHS năm 2015. Cụ thể các tình tiết tăng nặng này trong Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ (khoản 3 Điều 282 BLHS năm 1999) được tách ra để quy định ở hai khung hình phạt khác nhau trong khoản 3 và khoản 4 của Điều 357 BLHS năm 2015 về Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ; đồng thời cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng này và quy định mức hình phạt phù hợp cho mỗi khung. Cụ thể là gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm (khoản 3); gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm (khoản 4).

Phân tích cấu thành cơ bản tội phạm tham nhũng

tim luat su gioi tphcm dich vu luat su

Tội phạm tham nhũng là một dạng tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, thường liên quan đến việc lợi dụng quyền lực, chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cá nhân, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân khác. Các tội phạm tham nhũng bao gồm nhiều hành vi khác nhau, như tham ô tài sản, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, và nhiều hành vi khác.

Cấu thành tội phạm tham nhũng

  1. Chủ thể của tội phạm
    • Chủ thể của tội phạm tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn, bao gồm các cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp nhà nước và cả doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp.
    • Những người này có quyền lực hoặc quyền hạn nhất định và có thể lợi dụng chức vụ của mình để thực hiện các hành vi tham nhũng.
  2. Khách thể của tội phạm
    • Khách thể của tội phạm tham nhũng là sự hoạt động đúng đắn, liêm chính của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, và các tổ chức khác. Hành vi tham nhũng làm tổn hại đến uy tín, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức, và làm suy giảm niềm tin của công chúng vào nhà nước và pháp luật.
  3. Mặt khách quan của tội phạm
    • Hành vi: Mặt khách quan của tội phạm tham nhũng được biểu hiện qua hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản, nhận hối lộ, hoặc thực hiện các hành vi khác nhằm trục lợi cá nhân. Các hành vi này thường được che đậy, thực hiện một cách tinh vi, và gây thiệt hại lớn cho Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân khác.
    • Hậu quả: Hậu quả của tội phạm tham nhũng có thể là thiệt hại về tài sản, làm mất lòng tin của người dân, suy giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức, hoặc gây ra sự bất ổn trong xã hội. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tội phạm tham nhũng vẫn có thể cấu thành mà không cần phải có hậu quả xảy ra (ví dụ: hành vi nhận hối lộ).
  4. Mặt chủ quan của tội phạm
    • Lỗi: Lỗi trong tội phạm tham nhũng là lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm trục lợi cá nhân.
    • Động cơ: Động cơ của hành vi tham nhũng thường là vụ lợi, tức là muốn chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, hoặc các lợi ích khác cho bản thân hoặc cho người khác.
    • Mục đích: Mục đích của tội phạm tham nhũng là nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc phi vật chất cho bản thân hoặc cho người khác một cách không chính đáng.

Một số loại tội phạm tham nhũng cụ thể

  1. Tội tham ô tài sản (Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015)
    • Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
    • Hình phạt: Phạt tù từ 2 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi.
  2. Tội nhận hối lộ (Điều 354 Bộ luật Hình sự 2015)
    • Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để thực hiện hoặc không thực hiện một công việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
    • Hình phạt: Phạt tù từ 2 năm đến tử hình tùy theo số tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác nhận được.
  3. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355 Bộ luật Hình sự 2015)
    • Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của người khác.
    • Hình phạt: Phạt tù từ 1 năm đến 20 năm tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi.
  4. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358 Bộ luật Hình sự 2015)
    • Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gây ảnh hưởng, ép buộc người khác thực hiện hoặc không thực hiện một việc nhằm trục lợi cá nhân.
    • Hình phạt: Phạt tù từ 1 năm đến 7 năm tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi.

Kết luận

Tội phạm tham nhũng là một trong những tội phạm nguy hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh các cơ quan nhà nước cần hoạt động một cách minh bạch và hiệu quả. Việc xác định và xử lý đúng đắn các tội phạm tham nhũng là cần thiết để bảo vệ lợi ích công cộng, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong quản lý nhà nước và xã hội.

GIỚI THIỆU CHUYÊN TRANG LUẬT SƯ BÀO CHỮA HÌNH SỰ

luat su gioi tphcm

dịch vụ luật sư bào chữa

hotline 0922 822 466

Gọi luật sư