Phạm tội trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh

pham toi trong truong hop tinh than bi kich dong manh

Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là gì?

Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là một trạng thái tâm lý đặc biệt, trong đó một người trải qua những cảm xúc cực độ như tức giận, sợ hãi, hoặc đau khổ đến mức mất phần lớn khả năng kiểm soát hành vi của mình. Điều này thường xảy ra khi người đó phải đối mặt với một sự kiện hoặc tình huống gây sốc, đe dọa hoặc xúc phạm nghiêm trọng.

Các đặc điểm chính của tình trạng này:

  • Mất kiểm soát cảm xúc: Người bị kích động mạnh thường không thể kiểm soát được cảm xúc của mình, dễ bùng nổ và hành động thiếu suy nghĩ.
  • Hạn chế khả năng suy nghĩ: Khi bị kích động mạnh, khả năng phán đoán, suy nghĩ logic của người đó bị giảm sút đáng kể.
  • Tập trung vào cảm xúc: Tất cả sự chú ý của người đó đều đổ dồn vào cảm xúc tiêu cực, khiến họ khó có thể nhìn nhận vấn đề một cách khách quan.
  • Hành vi bất thường: Người bị kích động mạnh có thể có những hành vi bất thường, thậm chí là bạo lực.

Nguyên nhân gây ra tình trạng này:

  • Các sự kiện gây sốc: Sự mất mát người thân, tai nạn, bạo lực gia đình, hoặc các sự kiện gây tổn thương về tinh thần khác.
  • Các vấn đề tâm lý: Các rối loạn tâm lý như rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn lưỡng cực, hoặc rối loạn nhân cách.
  • Sử dụng chất kích thích: Rượu bia, ma túy có thể làm tăng khả năng bị kích động mạnh.

Ảnh hưởng của tình trạng này:

  • Gây hại cho bản thân: Người bị kích động mạnh có thể tự làm hại mình hoặc người khác.
  • Ảnh hưởng đến các mối quan hệ: Tình trạng này có thể làm hỏng các mối quan hệ xã hội của người đó.
  • Gây ra các vấn đề pháp lý: Trong một số trường hợp, hành vi của người bị kích động mạnh có thể vi phạm pháp luật.

Làm thế nào để đối phó với tình trạng này:

  • Tìm kiếm sự giúp đỡ: Nếu bạn cảm thấy mình đang bị kích động mạnh, hãy tìm kiếm sự giúp đỡ từ bạn bè, người thân, hoặc chuyên gia tâm lý.
  • Học cách quản lý cảm xúc: Các kỹ thuật như thiền, yoga, hoặc các hoạt động thư giãn khác có thể giúp bạn kiểm soát cảm xúc tốt hơn.
  • Tránh các chất kích thích: Rượu bia, ma túy có thể làm tình trạng trở nên tồi tệ hơn.
  • Tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp: Nếu tình trạng kéo dài và ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, bạn nên tìm kiếm sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lý.

Quy định pháp luật về Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra.

Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

  • “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm:
    a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.”

Phân tích tình tiết định tội trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong Bộ luật Hình sự năm 2015

dich vu luat su tu van phap luat hinh su tphcm

Có nhiều quan điểm khác nhau về “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.

  1. Có quan điểm cho rằng, tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình[3].

2. Một quan điểm khác gần giống với quan điểm này cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi[4].

  • Hai quan điểm này đều thừa nhận trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái mà tâm lý bị ức chế ở mức độ cao dẫn đến nhận thức bị hạn chế làm giảm đáng kể khả năng điều khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. Là phù hợp với hướng dẫn tại điểm b Mục 1 Chương 2 Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, mà theo đó: “ Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình.”
  • Bên cạnh đó, còn có quan điểm thứ ba lại coi trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó, họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất trí). Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước[5]. Theo quan điểm này, người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức, nhưng đã mất khả năng tự chủ – khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của mình.
    Các quan điểm vừa nêu đều có những nhân tố hợp lý riêng để thuyết phục được người đọc. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai có vẻ hợp lý hơn. Bởi, một người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người dù chịu sự tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ không hoàn toàn bị triệt tiêu.
dich vu luat su bao chua hinh su tphcm
  • Khác với trường hợp quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015, nếu một người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác (nguyên nhân khách quan) mà dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi, thì được xem là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Ở đây, người thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có nguyên nhân xuất phát từ phía người bị hại. Như vậy, nếu coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân ngoài ý muốn của họ, thì họ sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình.
    Thực tế, chỉ có thể xảy ra trường hợp một người vẫn còn khả năng nhận thức mà mất khả năng tự kiềm chế và điều khiển hành vi của mình do cơ chế sinh học hoặc một bệnh nào đó làm tổn hại bộ phận điều khiển hành vi của não bộ. Có thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi của mình. Tuy nhiên, dù trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận thức của họ giảm đi đáng kể, nhưng họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, đồng thời, việc không quan tâm đến cũng như hạn chế về nhận thức trong hoàn cảnh đó chắc chắn sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Nghĩa là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” là nhân tố chính làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả năng đó) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra.
    Với cách hiểu này, xét ở góc độ chủ quan người phạm tội, có thể phân biệt “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” và “trạng thái tinh thần bị kích động” ở mức độ nhận thức của người phạm tội khi thực hiện hành vi. Khi thực hiện hành vi, nếu người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả cụ thể nào, bất chấp việc hành vi của mình có trái pháp luật và mình phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không thì có thể coi đây là trường hợp “trạng thái tinh thần bị kích động”. Để làm sáng tỏ điểm này phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể, bởi thực tế có trường hợp đối với đối tượng này, trường hợp này  là bị kích động mạnh nhưng đối với đối tượng khác thì không. Chẳng hạn, khi phát hiện vợ mình ngoại tình với người khác tại nhà mình, có người vác dao chém ngay người tình của vợ mình. Nhưng cũng có người sẽ bình tĩnh trong xử lý, yêu cầu họ mặc quần áo vào; gọi điện thoại mời người thân, hàng xóm hoặc cán bộ thôn, ấp đến để nói chuyện nghiêm túc.
    Ngoài ra, còn có thể dựa vào nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động để xác định tinh thần có bị kích động mạnh hay không. Nguyên nhân làm cho “trạng tháitinh thần bị kích động mạnh” là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Trong khi đó, nguyên nhân làm cho “trạng thái tinh thần bị kích động” là hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân là một căn cứ để xem tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không. Khi xem xét tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, cần đánh giá toàn diện về cả cường độ lẫn số lượng của hành vi. Có trường hợp hành vi có cường độ mạnh nhưng chỉ xảy ra một lần cũng đủ dẫn đến kích động mạnh. Hoặc có trường hợp, hành vi dù cường độ thấp nhưng xảy ra nhiều lần cũng có thể dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi phạm tội. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, nhưng nói chung chưa đến mức là phạm tội[6].
    Khi phân tích CTTP của hai tội phạm được quy định tại Điều 125 và 135 của BLHS năm 2015, một vấn đề nảy sinh là việc xác định yếu tố chủ quan – lỗi của người phạm tội.
    Điều 125 quy định Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…”.
    Đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Điều 135 quy định:“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…”.
    Hầu hết các tài liệu, như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội – 2001); Bình luận Khoa học BLHS của nhiều tác giả, cũng như một số sách chuyên khảo của chuyên gia đầu ngành, khi phân tích về hai tội phạm này đều thừa nhận lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Quan điểm này xuất phát từ sự phân tích mặt chủ quan của Tội giết người (Điều 93) và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) của BLHS năm 1999. Tuy nhiên, qua việc phân tích “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” cho thấy, khi phạm tội, người phạm tội không nhận thức rõ hậu quả nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào sẽ xảy ra từ hành vi của mình và do đó, cũng không thể nói họ mong muốn hậu quả cụ thể nào đó xảy ra. Trong khi đó, để xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp thì khi thực hiện hành vi, họ phải nhận thức được hậu quả chết người hoặc gây thương tích, tổn hại sức khoẻ sẽ xảy ra từ hành vi trái pháp luật của mình, mong muốn hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, đối với Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnhTội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chỉ có thể nói người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp trong khi thực hiện tội phạm. Khẳng định trên có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét hai tội phạm này có giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành hay không. Theo đó, hai tội phạm này sẽ không có giai đoạn chưa hoàn thành. Bởi vì, giai đoạn chưa hoàn thành chỉ xảy ra đối với các tội phạm có dấu hiệu chủ quan là lỗi cố ý trực tiếp.

– Từ một số nội dung đã phân tích, việc xác định điểm đặc trưng của hai CTTP của hai tội phạm nói trên dựa theo BLHS năm 2015, theo tác giả nảy sinh vướng mắc sau:

  • Một là, theo quy định hiện hành, căn cứ vào bản chất của “trạng tháitinh thần bị kích động mạnh” giữa hai tội không thể phân biệt được khi dựa vào dấu hiệu chủ quan, nghĩa là dựa vào lỗi của người phạm tội đối với hậu quả. Bởi vì, như đã phân tích người phạm tội không nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào (chết người hay thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ). Khi thực hiện hành vi, họ chỉ nhận thức một cách khái quát về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả từ hành vi đó gây ra. Thực tế xảy ra hậu quả đến đâu, họ chấp nhận hậu quả đến đó. Do đó, chỉ có thể phân biệt hai CTTP này thông qua dấu hiệu hậu quả. Nếu hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội, đó là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Còn nếu hậu quả xảy ra chỉ là thương tích, đó là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
    Cũng có quan điểm khác cho rằng, nếu sau khi phạm tội, hậu quả xảy ra ngay hoặc một khoảng thời gian ngắn sau đó (chết trên đường đưa đi đến bệnh viện) thì đó là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Nếu hậu quả chết người xảy ra sau một thời gian nhất định (trong quá trình điều trị tại bệnh viện), đó là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Quan điểm phân biệt này rõ ràng thiếu cơ sở khoa học vì trong cả hai trường hợp, người phạm tội không nhận thức được rõ ràng hậu quả của hành vi phạm tội do mình gây ra. Bởi thực tế có không ít trường hợp, nếu ngay từ đầu làm tốt sơ cấp cứu tại chỗ, không để mất máu nhiều; không phải vượt qua nhiều km đường rừng, đèo dốc,…để chuyển nạn nhân đến bệnh viện, thì nạn nhân rõ ràng khó có thể chết.
    Như vậy, căn cứ vào bản chất của “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, hậu quả thực tế xảy ra là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt hai CTTP của các tội nói trên. Tuy nhiên, theo sự mô tả của Điều 125 và Điều 135 trong BLHS năm 2015, sẽ gặp khó khăn trong việc phân biệt chúng. Vấn đề này xảy ra khi nghiên cứu CTTP cơ bản của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (khoản 1, Điều 125) và CTTP tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (khoản 2, Điều 135) vì cả hai CTTP đều chứa đựng hậu quả chết người. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội trong cả hai trường hợp đều không nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào (chết người hay thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ) vì khi đó khả năng nhận thức của họ đã giảm đi đáng kể. Do đó, việc xác định trường hợp nào là cố ý đối với hậu quả chết người (giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh) hay vô ý với hậu quả chết người (cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người) là điều không khả thi. Để giải quyết vướng mắc này, theo quan điểm của tác giả, nhà làm luật nên nghiên cứu bỏ dấu hiệu hậu quả “chết người” trong CTTP tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (điểm b, khoản 2, Điều 135 của BLHS năm 2015). Như vậy, điểm b, khoản 2, Điều 135 của BLHS năm 2015 sau khi được sửa đổi, được viết lại như sau: “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”.
    Thiết nghĩ theo sửa đổi vừa nêu, mọi hành vi tấn công người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà có hậu quả chết người sẽ thoả mãn CTTP của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125). Nếu hành vi tấn công người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà chỉ có hậu quả tổn thương tích cơ thể tổn hại sức khoẻ thì thuộc CTTP của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Có như vậy người áp dụng mới không gặp lúng túng khi định tội danh đối với hai tội phạm này.
  • Hai là, đối với hai điều luật nói trên phát sinh từ việc quy định chế tài. Theo khoản 1 Điều 125 BLHS năm 2015, nếu người thực hiện hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Trong khi đó, khoản 2 Điều 135 quy định gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, thì có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Nếu cân nhắc tính nguy hiểm cho xã hội của hai trường hợp này dựa trên dấu hiệu khách quan (hậu quả) được quy định trong hai CTTP có thể thấy trường hợp phạm tội được quy định tại khoản 2 Điều 135 rõ ràng có tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thấp hơn trường hợp phạm tội theo khoản 1 Điều 125. Bởi vì hậu quả được mô tả trong khoản 1 Điều 125 là “chết người”; còn hậu quả tại khoản 2 Điều 135 là tổn thương tích cơ thể 61% trở lên…
    Trong khi bản chất nguy hiểm cho xã hội của hai trường hợp phạm tội là thế nhưng hình phạt quy định kèm theo không thể hiện sự tương xứng. Khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 135 nghiêm khắc hơn khung hình phạt tại khoản 1 Điều 125. Điều này không bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự. Từ những phân tích vừa nêu, tác giả kiến nghị sửa đổi khung hình phạt của tội phạm quy định tại Điều 135 của BLHS năm 2015 theo hướng:
    “1… thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm.
    2… thì bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm…”.

GIỚI THIỆU CHUYÊN TRANG LUẬT SƯ BÀO CHỮA HÌNH SỰ

TÌM THUÊ LUẬT SƯ GIỎI?

Luật sư Nguyễn Văn Phú

CEO of CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚ & LUẬT SƯ

Điện thoại: 0922 822 466

Email: phuluatsu@gmail.com

luat su gioi tphcm

DỊCH VỤ LUẬT SƯ BÀO CHỮA

Đánh giá post
Gọi luật sư