Miễn trách nhiệm hình sự, Giảm nhẹ hình phạt

5/5 - (3 bình chọn)

Miễn trách nhiệm hình sự

Miễn trách nhiệm hình sự là một khái niệm trong luật hình sự, liên quan đến việc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một cá nhân mặc dù họ đã thực hiện hành vi phạm tội. Dưới đây là các quy định và điều kiện về việc miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam.

mien trach nhiem hinh su giam nhe hinh phat

1. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự

Theo Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), một người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau đây:

1.1. Tự nguyện khai báo, thành khẩn hối lỗi, lập công chuộc tội

  • Người phạm tội tự nguyện khai báo hành vi phạm tội của mình với cơ quan chức năng.
  • Người phạm tội thành khẩn hối lỗi, ăn năn và cam kết không tái phạm.
  • Người phạm tội có hành động lập công chuộc tội, giúp cơ quan chức năng phát hiện hoặc bắt giữ tội phạm khác.

1.2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại

  • Người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa hoặc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.
  • Người phạm tội đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại và nhận được sự đồng ý của người bị hại hoặc gia đình họ.

2. Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự

2.1. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

  • Hành vi phạm tội phải có tính chất và mức độ nguy hiểm không lớn.
  • Các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng mà người phạm tội có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.

2.2. Hoàn cảnh phạm tội

  • Xem xét hoàn cảnh phạm tội để đánh giá tính nhân đạo và khả năng cải tạo của người phạm tội.

2.3. Thái độ và hành vi sau khi phạm tội

  • Người phạm tội có thái độ hợp tác, thành khẩn hối lỗi, và có hành vi tích cực để khắc phục hậu quả.
Bào chữa hình sự

3. Quy trình và thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự

3.1. Cơ quan có thẩm quyền

  • Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án là những cơ quan có thẩm quyền quyết định việc miễn trách nhiệm hình sự.

3.2. Quy trình

  • Điều tra và xác minh: Cơ quan điều tra tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội và các yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
  • Đề nghị miễn trách nhiệm hình sự: Viện kiểm sát có thể đề nghị miễn trách nhiệm hình sự nếu xét thấy người phạm tội đủ điều kiện.
  • Quyết định miễn trách nhiệm hình sự: Tòa án xem xét và ra quyết định miễn trách nhiệm hình sự nếu các điều kiện và căn cứ pháp lý được đảm bảo.

4. Một số ví dụ về miễn trách nhiệm hình sự

Ví dụ 1:

Một người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó đã tự nguyện khai báo hành vi phạm tội, hoàn trả toàn bộ số tài sản chiếm đoạt và thành khẩn hối lỗi. Trong trường hợp này, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Ví dụ 2:

Một người phạm tội gây thương tích cho người khác do bức xúc nhất thời, nhưng sau đó đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và được người bị hại tha thứ. Trong trường hợp này, người phạm tội cũng có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.

Kết luận

Miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp pháp lý nhân đạo, thể hiện sự khoan dung của pháp luật đối với những người phạm tội biết ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả và có hành vi tích cực. Quy định này giúp thúc đẩy người phạm tội tự giác khai báo, sửa chữa lỗi lầm và tái hòa nhập cộng đồng một cách tích cực.

Luật sư chuyên về hình sự

Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo BLHS năm 2015: 

Theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Tuy nhiên thực tế áp dụng quy định này còn có những quan điểm khác nhau. 

Về vấn này vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau chưa nhất quán dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất. Cụ thể phân tích một số trường hợp sau: 

– Vụ án thứ nhất, Nguyễn Văn D điều khiển xe ô tô vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu quả chết 01 người, bị thương 02 người (hai người này có đơn từ chối giám định thương tích), làm hư hỏng 01 xe ô tô của bị cáo, 01 xe mô tô và 03 xe đạp. 

Về bồi thường dân sự: Bị cáo và những bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại đã tự nguyện hòa giải, bồi thường thiệt hại; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Nguyễn Văn D bị TAND huyện Q, tỉnh H xử phạt 15 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999. 

Bị cáo có đơn kháng cáo xin được cải tạo ngoài xã hội và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn kháng cáo xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. 

– Vụ thứ hai, Nguyễn Đức T điều khiển xe ô tô vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, gây hậu quả chết 01 người, làm hư hỏng 01 xe mô tô. 

Về bồi thường dân sự: Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại. Trước khi xét xử sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. 

Nguyễn Đức T bị TAND huyện Q, tỉnh H xử phạt 09 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999. Bị cáo có đơn kháng cáo xin được cải tạo ngoài xã hội và đại diện hợp pháp của bị hại tiếp tục có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Có quan điểm cho rằng, qua hai vụ án trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì coi đây là tình tiết mới có lợi cho các bị cáo để miễn trách nhiệm hình sự. 

Tuy nhiên, khi xác định lỗi của người phạm tội đối với loại tội này thì có hai quan điểm khác nhau. luat su doanh nghiep, luật sư doanh nghiệp

Quan điểm 1: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý nên các bị cáo không đủ điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự. luat su dan su, luật sư dân sự

Quan điểm 2: Lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý nên thuộc trường hợp để miễn trách nhiệm hình sự. dich vu thu no, dịch vụ thu nợ

Chúng tôi cho rằng, lỗi trong tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải là lỗi vô ý do tự tin hoặc lỗi vô ý do cẩu thả. dich vu doi no, dịch vụ đòi nợ

Lỗi vô ý do tự tin, trong trường hợp người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Nếu người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phạm tội với lỗi cố ý thì không phải phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” mà là phạm tội khác như tội “Giết người”, tội “Cố ý gây thương tích”… 

Về việc miễn trách nhiệm hình sự đối với hai bị cáo nêu trên: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do lỗi vô ý quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS (hậu quả làm chết 01 người). Các bị cáo đều tự hòa giải, tự nguyện bồi thường dân sự cho bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại. Người đại diện hợp pháp của bị hại đều có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.  

Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì người phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tại khoản 1 Điều 202 BLHS, có thể xem xét miễn trách nhiệm hình sự nếu các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và được người đại diện hợp pháp của bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. 

Tuy nhiên, để đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm tình hình tai nạn giao thông ngày càng nghiêm trọng trong giai đoạn hiện nay, nếu như lỗi hoàn toàn thuộc về người phạm tội, gây hậu quả chết người, thì không nên xem xét miễn trách nhiệm hình sự đối với họ mà chỉ xem xét miễn trách nhiệm hình sự khi bị hại cũng có một phần lỗi hoặc không gây hậu quả chết người.

Dịch vụ Luật sư hình sự

Giảm nhẹ hình phạt

Giảm nhẹ hình phạt là một khái niệm quan trọng trong luật hình sự Việt Nam, liên quan đến việc giảm mức độ nghiêm khắc của hình phạt đối với người phạm tội. Việc giảm nhẹ hình phạt được thực hiện dựa trên các tình tiết giảm nhẹ mà pháp luật quy định. Dưới đây là các quy định và điều kiện về việc giảm nhẹ hình phạt theo Bộ luật Hình sự Việt Nam.

1. Quy định về giảm nhẹ hình phạt

Theo Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:

1.1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm

  • Người phạm tội có hành động ngăn chặn hậu quả xấu xảy ra hoặc làm giảm bớt tác hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.

1.2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả

  • Người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho người bị hại hoặc người bị hại đã được đền bù, khắc phục hậu quả.

1.3. Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải

  • Người phạm tội khai báo thành khẩn, thừa nhận hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải.

1.4. Người phạm tội tự thú

  • Người phạm tội tự nguyện đến cơ quan chức năng khai báo hành vi phạm tội của mình.

1.5. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng

  • Người phạm tội lần đầu, phạm tội ít nghiêm trọng hoặc không có tiền án, tiền sự.

1.6. Người phạm tội là người chưa thành niên

  • Người phạm tội dưới 18 tuổi có thể được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

1.7. Người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi

  • Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

1.8. Người phạm tội là người già yếu, người mắc bệnh nặng

  • Người già yếu hoặc người mắc bệnh nặng có thể được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

1.9. Các tình tiết giảm nhẹ khác

  • Các tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự hoặc được Tòa án xem xét và áp dụng.

2. Điều kiện và quy trình giảm nhẹ hình phạt

2.1. Điều kiện

  • Người phạm tội có một hoặc nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự.
  • Các tình tiết giảm nhẹ hình phạt này phải được chứng minh rõ ràng và cụ thể.

2.2. Quy trình

  • Điều tra và xác minh: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải thu thập, xác minh các tình tiết giảm nhẹ hình phạt trong quá trình điều tra và xét xử.
  • Xem xét tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình xét xử, Tòa án sẽ xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt và quyết định mức độ giảm nhẹ hình phạt.
  • Quyết định giảm nhẹ hình phạt: Tòa án sẽ ra quyết định giảm nhẹ hình phạt dựa trên các tình tiết giảm nhẹ và mức độ vi phạm của người phạm tội.

3. Các loại hình phạt có thể được giảm nhẹ

Các loại hình phạt có thể được giảm nhẹ bao gồm:

  • Phạt tiền
  • Cải tạo không giam giữ
  • Tù có thời hạn
  • Tù chung thân
  • Tử hình (trong một số trường hợp đặc biệt, có thể được giảm xuống tù chung thân)

4. Ví dụ về giảm nhẹ hình phạt

Ví dụ 1:

Một người phạm tội trộm cắp tài sản, nhưng sau khi bị phát hiện, đã tự nguyện trả lại toàn bộ tài sản và thành khẩn khai báo. Trong trường hợp này, Tòa án có thể xem xét giảm nhẹ hình phạt do người phạm tội đã khắc phục hậu quả và có thái độ thành khẩn.

Ví dụ 2:

Một phụ nữ phạm tội buôn bán ma túy nhưng đang mang thai và đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trong trường hợp này, Tòa án có thể giảm nhẹ hình phạt do tình tiết mang thai và thái độ thành khẩn khai báo.

Kết luận

Việc giảm nhẹ hình phạt là một biện pháp pháp lý nhân đạo, nhằm khuyến khích người phạm tội có thái độ tích cực trong quá trình điều tra, xét xử và khắc phục hậu quả. Quy định về giảm nhẹ hình phạt giúp bảo đảm sự công bằng, nhân đạo trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng.

Tìm Luật sư Giỏi

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

Căn cứ pháp luật tại Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: 

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”. Đây là một quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn xét xử. 

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự 1999:

“Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”

Điều 54 BLHS năm 2015 quy định việc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng 

“1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 

2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 

3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.” 

So với Điều 47 BLHS năm 1999 thì Điều 54 BLHS năm 2015 có một số sửa đổi, bổ sung như sau:

Một là, nội dung quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 đã kế thừa Điều 47 BLHS năm 1999 nhưng đã trình bày rõ ràng hơn, cụ thể là: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này”.

Hai là, việc bổ sung khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định về trường hợp Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung liền kề, theo đó: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”. 

Đây là một quy định rất mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn xét xử của Tòa án đối với những trường hợp người phạm tội lần đầu là người giúp sức, có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm, nhưng bị truy tố và xét xử ở khung hình phạt nặng cùng với các đồng phạm khác. Theo quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 thi dù có xem xét, vận dụng các tình tiết giảm nhẹ, khoan hồng tối đa, Tòa án cũng chỉ được phép áp dụng hình phạt trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt được áp dụng và hình phạt đó vẫn là quá nghiêm khắc. 

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định như vậy cần lưu ý các điều kiện cần phải thỏa mãn quy định tại khoản 1 BLHS năm 2015 tức là người phạm tội cũng phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Ba là, khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 được trình bày trên tinh thần tách quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 về việc Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn, nhưng cụ thể và rõ rang hơn so với quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999: “Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”.

Giới thiệu chuyên trang Luật sư chuyên về hình sự

FB IMG 1720100244256

TÌM LUẬT SƯ BÀO CHỮA MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ, GIẢM NHẸ HÌNH PHẠT

HOTLINE: 0922 822 466

Gọi luật sư