Định giá tài sản trong vụ án hình sự

5/5 - (3 bình chọn)

Vấn đề định giá tài sản trong vụ án hình sự

Định giá tài sản trong vụ án hình sự là một vấn đề quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm và quyết định hình phạt cho bị cáo. Dưới đây là các khía cạnh quan trọng liên quan đến việc định giá tài sản trong vụ án hình sự tại Việt Nam:

dinh gia tai san trong vu an hinh su

1. Khái niệm và vai trò của định giá tài sản

Khái niệm: Định giá tài sản trong vụ án hình sự là quá trình xác định giá trị thực tế của tài sản liên quan đến tội phạm (ví dụ: tài sản bị chiếm đoạt, tài sản bị phá hủy, tài sản bị thiệt hại).

Vai trò: Việc định giá tài sản có vai trò quan trọng trong:

  • Xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
  • Quyết định mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo.
  • Xác định mức bồi thường thiệt hại cho bị hại.

2. Quy định pháp luật về định giá tài sản

Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành, việc định giá tài sản trong vụ án hình sự được thực hiện theo các nguyên tắc sau:

Cơ quan có thẩm quyền: Việc định giá tài sản phải được thực hiện bởi Hội đồng định giá tài sản hoặc tổ chức thẩm định giá có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

Quy trình định giá:

  • Yêu cầu định giá: Cơ quan tiến hành tố tụng (công an, viện kiểm sát, tòa án) có quyền yêu cầu định giá tài sản.
  • Thành lập Hội đồng định giá: Hội đồng định giá thường bao gồm đại diện của cơ quan tài chính, cơ quan quản lý chuyên ngành và các chuyên gia có liên quan.
  • Tiến hành định giá: Hội đồng định giá tiến hành thu thập thông tin, kiểm tra, đánh giá và xác định giá trị tài sản.

Báo cáo kết quả định giá: Kết quả định giá tài sản phải được lập thành văn bản, nêu rõ cơ sở, phương pháp, quá trình định giá và kết luận về giá trị tài sản.

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc định giá tài sản

Việc định giá tài sản trong vụ án hình sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm:

Loại tài sản: Tài sản có thể là tài sản cố định (nhà cửa, đất đai), tài sản động (xe cộ, hàng hóa), tài sản tài chính (tiền, cổ phiếu) hoặc tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ).

Thời điểm định giá: Giá trị tài sản có thể thay đổi theo thời gian, do đó việc xác định thời điểm định giá là rất quan trọng.

Phương pháp định giá: Có nhiều phương pháp định giá tài sản như phương pháp so sánh, phương pháp chi phí, phương pháp thu nhập, tùy thuộc vào loại tài sản và tình huống cụ thể.

4. Các vấn đề thường gặp trong việc định giá tài sản

Sai sót hoặc gian lận trong định giá: Có thể xảy ra sai sót hoặc gian lận trong quá trình định giá tài sản, dẫn đến việc xác định giá trị tài sản không chính xác.

Tranh chấp về kết quả định giá: Các bên liên quan (bị cáo, bị hại) có thể không đồng ý với kết quả định giá, dẫn đến tranh chấp pháp lý.

Tính phức tạp của tài sản: Một số tài sản có tính phức tạp và khó định giá chính xác, như tài sản vô hình, tài sản có giá trị nghệ thuật hoặc lịch sử.

5. Giải pháp khắc phục vấn đề trong định giá tài sản

Nâng cao năng lực định giá: Đào tạo và nâng cao năng lực cho các cán bộ tham gia vào quá trình định giá tài sản.

Minh bạch và công khai: Đảm bảo quy trình định giá tài sản được thực hiện một cách minh bạch, công khai và đúng pháp luật.

Giải quyết tranh chấp: Xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến kết quả định giá tài sản, bao gồm quyền yêu cầu định giá lại, quyền kháng cáo quyết định của Hội đồng định giá.

Áp dụng công nghệ: Sử dụng công nghệ và phương pháp hiện đại trong quá trình định giá tài sản để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả.

Kết luận

Định giá tài sản trong vụ án hình sự là một quá trình phức tạp và có vai trò quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, cũng như trong việc quyết định hình phạt và bồi thường thiệt hại. Việc đảm bảo quy trình định giá tài sản được thực hiện một cách minh bạch, chính xác và công bằng là rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử.

Quy định pháp luật về định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Liên quan đến một số loại tội phạm cụ thể được quy định bộ luật hình sự, việc định giá tài sản là căn cứ quan trọng trong việc định tội danh chính xác, đúng quy định pháp luật. Mặt khác định giá tài sản cũng là căn cứ để giải quyết đồng thời các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. 

Quy định pháp luật về định giá tài sản trong vụ án hình sự như thế nào?

Căn cứ pháp lý gồm:

  • Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/03/2005 của chính phủ quy định về hội đồng định giá trong tố tụng hình sự 
  • Thông tư 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài Chính hưỡng dẫn chi tiết Nghị định số 26/2005/NĐ-CP. 

Những điểm chính cần lưu ý về giám định tài sản như sau:

Điều 2. Nguyên tắc định giá tài sản

1. Phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm.

2. Trung thực, khách quan, công khai và kịp thời.

Hướng dẫn chi tiết theo thông tư 55/2006/TT-BTC: 

Định giá tài sản trong tố tụng hình sự phải phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm; phải đảm bảo sự trung thực, khách quan, công khai và kịp thời, cụ thể như sau: 

a/ Giá thị trường của tài sản là giá mua, bán, giao dịch theo thỏa thuận của tài sản cùng loại hoặc tương đương trên thị trường trong điều kiện thương mại bình thường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm. 

Đối với tài sản bị xâm phạm là loại tài sản Nhà nước định giá, thì giá của tài sản cần xác định là giá do Nhà nước quy định tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm.

Đối với tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường (tài sản chuyên dùng, đơn chiếc), giá tài sản cần xác định phải bảo đảm được chi phí tái tạo lại tài sản hoặc chi phí nhập khẩu tài sản đó tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm. 

b/ Mức giá tài sản được xác định để làm cơ sở cho việc định giá là mức giá bình quân của tháng. Thời gian để thu thập mức giá tài sản bị xâm phạm là một tháng (30 ngày) trước và một tháng (30 ngày) sau ngày tài sản bị xâm phạm; nếu trong thời gian trên mà không thu thập được đầy đủ thông tin làm cơ sở cho việc định giá thì mở rộng thời gian thu thập thông tin về giá thêm một tháng về trước và  một tháng về sau. 

Khi tiến hành điều tra thu thập thông tin về giá của tài sản bị xâm phạm phải được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên thị trường trong điều kiện thương mại bình thường.

Điều kiện thương mại bình thường là việc mua bán được tiến hành khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xẩy ra những đột biến do chịu tác động của thiên tai, địch họa…các thông tin cung, cầu, giá cả tài sản bị xâm phạm được thể hiện công khai trên thị trường.

c/ Giá tài sản được xác định làm căn cứ khi định giá tài sản bị xâm phạm phải được thu thập tại nơi tài sản bị xâm phạm.

Nơi tài sản bị xâm phạm được tiến hành khảo sát là các trung tâm thương mại, các tổ chức và cá nhân có sản xuất các tài sản cùng loại hay tài sản tương đương với tài sản bị xâm phạm thuộc phạm vi đơn vị hành chính huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện). 

d/ Tài sản cùng loại với tài sản bị xâm phạm là tài sản có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Tài sản cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau. luật sư doanh nghiệp, luat su doanh nghiep

e/ Tài sản tương đương với tài sản bị xâm phạm là tài sản có đủ các đặc trưng cơ bản giống với tài sản bị xâm phạm, gồm:

– Có đặc trưng vật chất của tài sản giống nhau;

– Có thông số kỹ thuật tương đồng; 

– Có cùng chức năng mục đích sử dụng;

– Có thể thay thế cho nhau trong sử dụng;

– Chất lượng tương đương nhau.

Điều 13. Căn cứ định giá tài sản

Việc định giá tài sản phải dựa trên các căn cứ sau đây:

1. Giá phổ biến trên thị trường tại thời điểm và nơi tài sảnbị xâm phạm;

2. Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;

3. Giá trên tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá, nếu có;

4. Giá trị thực tế của tài sản cần định giá;

5. Các căn cứ khác về giá trị của tài sản cần định giá.

Thông tư hướng dẫn chi tiết: 

Căn cứ định giá tài sản: định giá tài sản phải dựa trên các căn cứ  sau đây:

a/ Giá phổ biến trên thị trường của tài sảntại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm. Giá phổ biến trên thị trường là giá mua, bán theo thỏa thuận đối với tài sản cùng loại hoặc tương đương và là mức giá có số lần xuất hiện nhiều nhất trên thị trường trong thời gian, địa điểm tài sản bị xâm phạm. 

b/ Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định đã được áp dụng tại địa phương nơi tài sản bị xâm phạm và tại thời điểm tài sản bị xâm phạm.

c/ Giá của tài sản cần định giá được xác định trong tài liệu hồ sơ hợp pháp về loại tài sản đó của chủ sở hữu tài sản (nếu có). 

d/ Giá trị thực tế của tài sản cần định giá:

– Đối với tài sản mới: Hội đồng định giá tài sản xác định giá tài sản theo tài sản cùng loại hoặc tài sản tương đương và còn mới 100%.

– Đối với tài sản đã qua sử dụng: Hội đồng định giá tài sản phải kiểm định, đánh giá chất lượng còn lại của tài sản, hàng hóa sau khi đã tính phần hao mòn đã qua sử dụng để xác định giá trị còn lại của tài sản đó. 

e- Các căn cứ khác về giá trị của tài sản cần định giá là những căn cứ xác định giá trị thị trường của tài sản cần định giá như những thông tin, dữ liệu về mặt kỹ thuật và về mặt pháp lý của tài sản; giá chuyển nhượng tài sản thực tế có thể so sánh được trên thị trường; mức độ sử dụng tốt nhất có khả năng mang lại giá trị cao nhất, hiệu quả nhất của tài sản; quan hệ cung cầu về tài sản… 

Điều 15. Khảo sát giá

Hội đồng định giá tài sản thực hiện khảo sát giá bằng các hình thức sau đây:

1. Khảo sát giá thị trường theo giá bán buôn hoặc giá bán lẻ đối với tài sản cùng loại hoặc tương đương còn mới, có chất lưượng đạt một trăm phần trăm;

2. Nghiên cứu bảng giá tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định để thực hiện tại địa phưương;

3. Tham khảo giá trên tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá.

Thông tư hướng dẫn chi tiết:

a/ Tùy theo tính chất, đặc thù và điều kiện lưu thông trên thị trường của từng loại tài sản bị xâm phạm mà Hội đồng định giá tài sản tiến hành khảo sát giá tài sản bị xâm phạm theo một trong 2 loại sau: giá bán buôn hoặc giá bán lẻ đối với tài sản cùng loại hoặc tài sản tương đương. 

Để Hội đồng định giá tài sản có được đánh giá tổng quát thì việc khảo sát giá mỗi loại giá nêu trên đều phải thực hiện trên cả 3 khu vực: trên thị trường, trên hồ sơ tài liệu, tại cơ quan có thẩm quyền đã định giá loại tài sản đó.

Các thành viên của Hội đồng định giá tài sản tiến hành khảo sát giá thực hiện theo phương pháp điều tra trực tiếp (mẫu 01-KSG, mẫu 02-KKTS kèm theo Thông tư này).

b/ Các bước khảo sát giá:

Bước 1: Lập kế hoạch khảo sát.

Bước 2: Xác định địa điểm nơi tài sản bị xâm phạm: xã (phường) và đơn vị hành chính cấp Huyện.

Bước 3: Xác định tình trạng tài sản bị xâm phạm cần khảo sát giá:

– Đối với tài sản bị xâm phạm không còn nữa thì Hội đồng định giá phải lấy lời khai và hồ sơ tài liệu (nếu có) của người bị hại, người  làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người có hành vi xâm phạm tài sản để xác định tài sản bị xâm phạm là tài sản gì (chủng loại, mẫu mã, nhãn mác, chất lượng…).

– Trong trường hợp cần thiết thì Hội đồng định giá tài sản có thể yêu cầu người làm chứng nhận dạng tài sản bị xâm phạm trước khi tiến hành xác định giá.

– Đối với tài sản bị xâm phạm đã qua sử dụng (hoặc đã có thay đổi về kết cấu cơ bản của tài sản) thì Hội đồng định giá tài sản phải tiến hành kiểm định, đánh giá chất lượng tài sản, hàng hóa cần định giá sau khi đã tính đến khấu hao phần đã sử dụng để xác định giá trị còn lại của tài sản đó. 

– Đối với tài sản bị xâm phạm cần định giá là kim khí quý, đá quý hoặc những đồ vật mang yếu tố nghệ thuật, lịch sử…  Hội đồng định giá tài sản phải dựa trên kết quả giám định của cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực đó.

Bước 4: Xác định thời điểm tài sản bị xâm phạm và quyết định ngày, tháng, năm cụ thể để tiến hành khảo sát giá.

Bước 5: Phối hợp với chính quyền các cấp có liên quan tại địa phương nơi tài sản bị xâm phạm để khảo sát giá.

Bước 6: Lựa chọn đối tác khảo sát: Chọn những đối tác cụ thể để thu thập số liệu như: cá nhân, doanh nghiệp sản xuất, cá nhân tổ chức có am hiểu từng loại tài sản bị xâm phạm hay tài sản tương đương, các đại lý, cửa hàng, trung tâm thương mại, nguyên đơn và bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Bước 7: Thu thập các mức giá của tài sản bị xâm phạm:

– Việc thu thập các mức giá trên thị trường của tài sản phải tuân thủ theo Khoản a, Điểm 2, Mục II, Thông tư này.

– Thu thập các mức giá (trên thị trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, tại hồ sơ kèm theo tài sản) phải đúng mẫu biểu kèm theo Thông tư này.

– Thu thập các mức giá phải được thực hiện ít nhất là 03 phiếu điều tra cho một vụ việc yêu cầu định giá.

Bước 8: Tổng hợp số liệu thu thập được, làm văn bản báo cáo cụ thể để trình Hội đồng định giá tài sản.

Vấn đề Định giá lại tài sản:

Việc định giá lại tài sản thực hiện theo quy định tại Điều 21, Nghị định số 26/2005/NĐ-CP, cụ thể  như sau:

– Định giá lại tài sản trong trường hợp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có nghi ngờ về kết quả định giá được thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có đầy đủ căn cứ, cơ sở nghi ngờ một cách khách quan và thuyết phục.

– Định giá lại trong trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại (định giá lại lần 2), thực hiện khi kết luận định giá lại khác với kết luận định giá lần đầu.

–  Việc định giá lại do Hội đồng định giá tài sản cấp trên trực tiếp thực hiện: Hội đồng định giá tài sản ở cấp tỉnh định giá lại tài sản do Hội đồng định giá tài sản ở cấp huyện định giá lần đầu; Hội đồng định giá tài sản ở trung ương định giá lại tài sản do Hội đồng định giá tài sản ở cấp tỉnh định giá lần đầu.

Giới thiệu chuyên trang Luật sư chuyên về hình sự

FB IMG 1720100244256

THAM VẤN LUẬT SƯ CHUYÊN VỀ HÌNH SỰ

HOTLINE: 0922 822 466

Gọi luật sư